BabyWolf - Nguyễn Vũ Tuấn Anh

Blog cá nhân chia sẻ về thiết kế web, SEO, Online Marketing, giải pháp web, cuộc sống và nhật ký của tôi.

Đêm thứ 1002 của nàng Sheherazatd hay câu chuyện cuối cùng của hoàng hậu Ba Tư

Nàng Sheherazatd đã được tấn phong hoàng hậu sau 1001 đêm liên tục kể chuyện cho hoàng đế Shariar. Ngày lễ đăng quang của hoàng hậu là ngày vui mừng của toàn thể vương quốc, vì nó đã kết thúc những chuỗi ngày khủng khiếp: Cứ mỗi khi bình minh ló dạng thì một thiếu nữ lại rơi đầu, sau một đêm ân ái với nhà vua.

Lễ đăng quang vô cùng long trọng với đầy đủ nghi thức. Sự huy hoàng của nó vượt xa tất cả những buổi lễ trọng thể nhất trước đó mà con người có thể biết được. Phí tổn cho buổi lễ xứng đáng với một quốc gia hùng mạnh nhất thời bấy giờ. Hàng ngàn nô lệ da đen và da trắng phục dịch ngày đêm trong những bộ đồng phục rực rỡ. Chỉ tính riêng phần chi cho một nô lệ phục vụ cũng lên tới gần 100 đi-na tiền vàng. Những đầu bếp giỏi nhất của vương quốc và của cả những quốc gia lân cận cũng được mời đến để thực hiện những món ăn cầu kỳ cho thực khách. Khách mời là tất cả những ai có mặt trong vương quốc có thể đến được hoàng cung: từ những vị sứ thần của các quốc gia lân bang, những thương gia ngoại quốc, những quan to trong triều, những vương tôn công tử, cho đến tất cả những người bần cùng nhất cũng đều được hưởng ân sủng của nhà vua. Trong tiệc liên hoan, rượu chảy tưởng chừng như vô tận, cùng đủ thứ sơn hào, hải vị với những của ngon vật lạ trên đời, mà mọi người có thể biết đến hoặc mới biết đến trong lễ đăng quang của hoàng hậu.

Tất cả đều say sưa trong hoan lạc và ngây ngất bởi hàng trăm vũ nữ tuyệt thế, uyển chuyển như hoà vào thanh âm du dương trầm bổng do những nhạc công tài ba nhất vương quốc tạo ra từ nhạc khí của họ, để chúc mừng cho cuộc sống thanh bình và hạnh phúc của nhà vua.

Đêm về khuya, mảnh trăng lưỡi liềm đã treo lơ lửng giữa bầu trời bao la lóng lánh ngàn sao. Hoàng đế và hoàng hậu lui vào hậu cung để thoả lòng ân ái. Khi những thị thần đã lui ra, chỉ còn một thị nữ thân cận của hoàng hậu và cũng là em gái của nàng, người đã cùng nàng ở bên cạnh nhà vua trong suốt 1001 đêm, hoàng đế Shariar phán:

– Ái khanh đã kể cho trẫm nghe chuyện trong suốt 1001 đêm. Những câu chuyện của khanh đã đưa trẫm vào thế giới kỳ thú, huyền ảo của thiên nhiên và con người. Đó là những câu chuyện vô giá, khiến cho trẫm tỉnh ngộ và đã sửa chữa những sai lầm của trẫm, đồng thời cũng đưa khanh lên địa vị của người đàn bà cao quí nhất vương quốc hùng mạnh của chúng ta. Nay trẫm muốn trong đêm hạnh phúc này, khanh hãy kể cho trẫm nghe một câu chuyện để kỷ niệm cho ngày hôm nay và những ngày đã qua. Một ngày đã tạo nên bước ngoặt cuộc đời của trẫm và của khanh, cũng như của tất cả thần dân dưới quyền cai trị của trẫm.

Hoàng hậu nói:

– Muôn tâu bệ hạ! Thần thiếp xin lãnh ý và kể hầu bệ hạ một câu chuyện đã làm thiếp đắn đo trong gần 1001 đêm qua, vì không biết có nên kể cho bệ hạ hay không? Nhưng trong đêm nay, thần thiếp sẽ kể. Thiếp kể chuyện lần này không phải với tư cách một thị nữ trong hoàng cung, mà là hoàng hậu của một vương quốc hùng mạnh, người đang được bệ hạ sủng ái!

Hoàng đế vui mừng phán:

– Vậy ái khanh hãy kể ngay đi, chắc nó phải là câu chuyện hay hơn cả những câu chuyện mà trẫm đã nghe trong 1001 đêm qua phải không?

– Muôn tâu bệ hạ, thần thiếp không dám cho rằng câu chuyện sắp được kể sau đây hay hơn cả những câu chuyện đã kể trong 1001 đêm qua. Nhưng sở dĩ chỉ đến hôm nay thiếp mới kể được, chính vì nội dung của nó. Đó không phải là câu chuyện thần thoại của những ngày xa xưa, mà nó xảy ra ngay trong hiện tại, khi thiếp còn là thị nữ và đang kể chuyện hầu bệ hạ trong 1001 đêm!

– Ồ thế thì hay quá! Trẫm không thể ngờ rằng trong vương quốc của trẫm cũng có những câu chuyện y như trong 1001 đêm vậy. Khanh hãy kể ngay đi!

Hoàng hậu Sheherazatd nói:

– Muôn tâu bệ hạ! Câu chuyện thiếp được nghe kể rằng: Hai năm trước đây, cách thành Bagdad hai trăm dặm về phía Bắc, có một ốc đảo giữa sa mạc. Ở đó có gia đình chàng Isarat Vidi sống cùng vợ và ba đứa con. Một hôm, chàng phải đến Bagdad để giao dịch việc buôn bán. Xong việc, chàng quay trở về.

Con lạc đà của chàng bước từng bước khoan thai trên sa mạc. Trên lưng nó, Isarat Vidi đang trầm tư về cái gia đình bé nhỏ của anh: “Có lẽ lúc này người vợ xinh đẹp với ba đứa con, chắc cũng đang nghĩ về mình …”. Khi đi, anh hẹn một tháng sẽ trở về mà bây giờ đã gần hai tháng rồi. Anh hình dung người vợ với vẻ mặt lo lắng, mỗi chiều lại ra đứng trước lều, mở to đôi mắt đen láy, cùng với ba đứa con ngóng đợi anh về. Thiếu cha, chắc chắn ba đứa con bé bỏng đang nép vào lòng mẹ nó và nhắc tới anh… “Đường còn xa, đi kiểu này nhanh lắm cũng phải chiều mai mới về được tới nhà!”. Anh giật mạnh dây cương và vỗ vào cổ chú lạc đà Ali. Con lạc đà khựng lại lấy trớn, rồi phóng nước kiệu.

Trước mắt anh vẫn là biển cát mênh mông. Phía chân trời, những hạt cát bị gió cuốn bay, làm cho người ta có cảm giác ở đó sa mạc đang bốc khói. Kinh nghiệm của những người dân sống ở sa mạc cho anh biết: đó là dấu hiệu của một cơn bão cát. “Lại gặp trắc trở rồi! Thật chẳng thú vị gì khi đêm nay ta và con Ali phải chống chọi với bão sa mạc!”. Nghĩ vậy, anh cho chú lạc đà đi chậm lại để dưỡng sức. Mặc dù anh thừa biết chú lạc đà Ali đủ sức vượt qua cơn bão với một mình anh. Thật là may mắn, có lẽ đây là ơn riêng của Thượng đế ban phước cho gia đình anh. Nếu như lúc ra đi, anh cho đứa con trai của anh theo thì có lẽ hai cha con cùng con Ali sẽ bị vùi trong sa mạc. Con lạc đà của anh chỉ đủ sức chở một người qua cơn bão cát, vì nó bắt đầu già rồi!.

Chú lạc đà chồm lên đỉnh cồn cát một cách chật vật, vì gió và sức nặng của ông chủ nó. Bỗng từ dưới cồn cát có tiếng la:

– Ông ơi! Hãy cứu tôi với! Xin cám ơn Đức Ala đã đưa ông đến như một sứ giả nhân danh lòng từ ái của Người, để cứu tôi qua cơn bão cát giữa sa mạc này.

Isarat ghì cương con lạc đà, ngoái nhìn người đàn ông có ánh mắt mệt mỏi hắt ra từ khuôn mặt khắc khổ và tiều tuỵ, có lẽ đã nhiều ngày lang thang trên sa mạc.

Chàng ái ngại hỏi:

– Ông là ai? Lạc đà của ông đâu?

– Tôi là Mohamet Muykhan! Xin ông hãy cứu vớt tôi! Tôi là một kẻ khốn khổ, bọn cướp đã lấy đi tất cả của tôi. Nhưng nhờ sự che chở của Đức Ala, tôi đã trốn thoát khỏi tay bọn chúng và lang thang trên sa mạc mênh mông này. Đói và khát đã hành hạ tôi. Tôi sẽ chết thưa ông! Bão cát sẽ vùi lấp tôi. Mong ông hãy cứu vớt tôi vì lòng nhân ái của con người.

– Ông Muykhan ơi! Tôi là Isarat Vidi, người con của dân tộc Do Thái, dù Đức Jehovah – Thượng đế của chúng tôi – luôn nhắc nhở phải sẵn lòng nhân ái và giúp đỡ mọi người. Nhưng tôi không thể giúp gì cho ông được, mặc dù tôi rất ái ngại cho sự không may của ông. Vì con lạc đà của tôi chỉ có thể chở được một người qua cơn bão này, nó đã bắt đầu già rồi.

– Ông ơi! Tuy chúng ta không cùng tôn giáo, nhưng những Đấng tối cao của cả hai tôn giáo của chúng ta đều khuyên con người phải yêu thương lẫn nhau. Và tất cả các nhà hiền triết đã chết hay đang sống trên cõi đời này, đều lấy lòng nhân đạo và sự thánh thiện làm đầu, nếu muốn chứng tỏ tư tưởng của họ thuộc chính đạo. Tự thân cuộc đời họ, dù trong khổ hạnh hay sung sướng, đều là tấm gương sáng cho lòng bác ái thánh thiện của con người. Tôi muốn sống, cũng như ông và mọi sinh vật trên thế gian đều muốn sống. Xin ông hãy cứu vớt tôi vì lòng nhân ái mà Thượng đế đã ban ở nơi ông!

– Mong ông hãy hiểu cho tôi! Không phải tôi không muốn giúp ông. Nhưng con lạc đà của tôi không đủ sức chở hai người qua cơn bão. Nó sẽ kiệt sức chết và cả hai chúng ta đều chết. Tôi muốn sống và con lạc đà của tôi cũng muốn sống với chủ nó. Tôi không thể giúp ông được. Cầu xin Thượng đế tối cao rủ lòng thương xót sẽ cứu ông khỏi chết.

Nói xong, Isarat giật dây cương và con lạc đà lại chậm rãi bước đi.

– Ôi! Đức Ala cao cả! Ôi! Các bậc thánh nhân đã khóc cho nhân loại đau thương. Sự từ bi của các ngài có phải chính vì con người đã lạnh lùng trước đau khổ của đồng loại hay không? Ông Isarat Vidi ơi! Đấng tối cao đã cho chúng ta thấy bằng thần uy của Người: Dấu hiệu của cơn bão cát phía xa kia, chưa chắc đã chứng tỏ bão cát sẽ thật sự xảy ra. Tôi biết ông là người cao cả và đầy nhân ái. Ông hãy cho tôi cùng đi trên con lạc đà của ông. Tôi đã kiệt sức rồi, dù bão cát không nổi lên, tôi cũng không thể một mình qua được sa mạc khắc nghiệt này. Tôi sẽ chết thưa ông! Nhưng, nếu như dấu hiệu của cơn bão cát phía xa kia tan đi vì ý muốn của Đấng tối cao – như Người đã nhiều lần chứng tỏ – thì ông sẽ phải hối hận vì đã bỏ lỡ đi cơ hội cứu giúp một con người khốn khổ sắp chết, cũng như tất cả mọi con người sinh ra đều phải chết. Nhưng có những cái chết thật bẩn thỉu và đê tiện. Còn cái chết của tôi và ông trong cơn bão cát này thì… Tôi sẽ chết trong niềm tin vào lòng nhân ái của con người. Còn ông, ông chết vì thể hiện lòng nhân ái cao cả. Ông Isarat, ông đừng bỏ rơi tôi.

Isarat Vidi ngừng con lạc đà. Chàng trầm tư một chút rồi thở dài:

– Thôi được! Ông hãy lên đây!

Chàng vỗ đầu con Ali. Chú lạc đà ngoan ngoãn quì xuống. Muykhan leo lên lưng lạc đà, ngồi phía sau chàng. Con lạc đà đứng dậy và bước đi…

Isarat lo lắng nhìn về phía chân trời. Gió thổi mỗi lúc một mạnh. Chàng nói:

– Có lẽ chúng ta cùng chết mất! Gió không giảm mà còn mạnh lên. Tôi sợ rằng chỉ tối nay sẽ có bão thôi ông ạ!

– Chúng ta sẽ không cùng chết đâu, ông Isarat Vidi ạ! Mà có thể chỉ một mình ông thôi!

Tiếng nói vừa dứt thì một mũi dao bén ngọt đã gí vào lưng Isarat Vidi đúng chỗ trái tim.

– Ngươi hãy xuống khỏi con lạc đà ngay, đó là lòng nhân ái mà ta dành cho ngươi. Nếu không, ngươi sẽ chết ngay trên lưng con lạc đà này!

– Ôi! Thượng đế trên cao! Ông nỡ đối xử với tôi như thế sao?

– Con lạc đà này chỉ chở được một người. Ông biết điều đó hơn tôi và đã dạy cho tôi biết điều đó. Tôi không phải là kẻ tàn ác vô ơn, nhưng tôi cần phải sống. Ông hãy xuống ngay. Đấng tối cao sẽ cứu vớt ông, nếu ngài cho cơn bão này dừng lại. Ông đừng nhiều lời nữa. Mũi dao hích nhẹ vào lưng làm Isarat đau nhói như một lời cảnh cáo cuối cùng.

Isarat giơ tay định vỗ đầu cho con lạc đà quì xuống.

– Không được! Ông phải nhảy xuống. Vì nếu không, ông sẽ chống lại ta khi con lạc đà chưa kịp đứng lên!

Isarat nhảy xuống cát. Muykhan ngoảnh mặt lại nói với chàng:

– Ông khôn ngoan đấy, ông Isarat ạ! Ông đã kịp thời lựa chọn giữa cái chết tức khắc và sự sống trong một cơ hội may mắn, dù chỉ là mỏng manh. Thôi nhé! Chúng ta từ biệt nhau được rồi đấy. Tôi thành thật biết ơn ông và cầu xin Đức Ala cao cả của chúng tôi và Đức Jehovah khả kính của ông phù hộ cho ông được sống. Ông có muốn nhắn gì với người thân của ông không?

– Muykhan! Ông hãy ngừng lại nghe tôi nói đây. Tôi cũng có những người thân yêu như tất cả mọi người. Tôi cũng đã có vợ và con cần đến sự chăm sóc của tôi. Tôi còn nhiều sự ràng buộc bởi trách nhiệm trong cuộc đời đối với vợ con và những người thân của tôi. Tất nhiên, tôi phải có nhiều lời để nói lại với họ. Nhưng tôi không muốn loại người như ông gặp họ, nên tôi không nhờ ông chuyển lời nói cuối cùng của tôi đến với họ. Tôi chỉ muốn nói với chính ông những lời cuối cùng của kẻ sắp chết vì đã làm ơn cho ông. Ông Muykhan! Tôi luôn tin ở lòng nhân ái nơi con người, nên tôi cho rằng việc làm của ông đối với tôi chẳng qua vì bị đẩy vào một hoàn cảnh phải lựa chọn giữa cái sống và cái chết. Nên ông bắt buộc phải xử tệ với tôi. Ở trong một hoàn cảnh khác, có thể ông vẫn là một người lương thiện. Tôi tha thứ cho ông và chúc sự an lành cho ông, vì con lạc đà của tôi đủ sức chở một người qua cơn bão cát này. Nhưng điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Ông hãy quên câu chuyện này giữa hai chúng ta đi. Vì ông nhớ, lương tâm sẽ giằng xé ông, còn ông nói ra – dù với sự ân hận và chua xót như một lời thú tội – thì ông sẽ mắc một tội còn lớn hơn việc đã đẩy tôi vào cõi chết. Do câu chuyện giữa hai chúng ta đã bắt đầu bằng lòng nhân ái và tình thương của con người, đỉnh cao của những tinh hoa tư tưởng của nhân loại, sự tột cùng thánh thiện của các tôn giáo. Nhưng để rồi cái nguyên nhân cao cả đó lại dẫn đến kết quả bi thảm cho số phận con người. Cho nên tôi có điều mong muốn cuối cùng là: Ông đừng kể câu chuyện này cho ai nghe, vì như thế nhân loại sẽ không còn tin nhau nữa. Và đó sẽ là thảm kịch bi đát nhất của loài người.

Nghe nói, Mohamet Muykhan giật mạnh dây cương cho con lạc đà quay cổ lại. Anh ta ngồi nghiêm chỉnh trên lưng lạc đà, nhìn thẳng xuống Isarat Vidi trong ánh mắt lạnh lùng và trả lời với một giọng đều đều, vô hồn, như tiếng kinh nguyện cầu cho kẻ chết:

– Ông Isarat Vidi! Ông quả là một con người thánh thiện. Nhưng xin ông đừng quá âu lo cho niềm tin vào lòng nhân ái, cũng như tất cả giá trị tinh thần cao cả khác của con người, khi tôi kể câu chuyện giữa hai chúng ta. Tôi sẽ kể thưa ông, khi tôi cảm thấy có lợi cho tôi và tôi tin chắc rằng sẽ không tai hại gì cho niềm tin của con người đối với nhau. Vì bản chất con người, kể từ khi có loài người đến nay, vốn đã không tin nhau; thậm chí còn tàn ác với nhau, để cho cuộc đời ngay trong lúc thanh bình vẫn ẩn chứa thương đau. Vì vậy, chính lòng tham ác của con người là nguyên nhân nảy sinh lòng nhân ái của họ. Có sự tàn ác, đê tiện, vô liêm sỉ nên cái thánh thiện và đạo lý mới được tôn vinh. Và cuối cùng, mọi giá trị cao cả tốt đẹp của con người luôn hiện tồn cùng nhân loại, khi con người còn có tất cả những cái gì mà con người gọi là xấu xa bẩn thỉu. Nên, nếu như tôi có kể câu chuyện này, cũng chẳng khác gì những câu chuyện đau lòng đã xảy ra, mà còn tiếp tục xảy ra ở thế gian, trong xã hội loài người. Vì thế trước đây, hiện nay và cho đến mãi mãi về sau, một thằng ăn cướp khốn khổ như tôi chưa bao giờ phải chịu trách nhiệm về niềm tin của nhân loại vào những giá trị tinh thần cao cả của họ. Loài người vốn đã không tin nhau, có lẽ cũng không tin luôn câu chuyện này khi tôi kể cho họ. Vì họ không tin rằng: trên đời này lại có một người thánh thiện như ông, nên họ cũng chẳng tin rằng lại có một người tồi tệ như tôi. Thôi nhé! Tạm biệt Isarat Vidi. Cầu chúc cho ông, con người thánh thiện duy nhất trên thế gian mà tôi được biết và được gặp, sẽ bình yên qua cơn bão cát dưới sự che chở của Đấng Tối cao. Ôi! Nếu quả là Người có thật trong vũ trụ này…

Kể đến đây, hoàng hậu ngừng lời. Nhà vua vội hỏi:

– Rồi làm sao nữa? Bão cát có nổi lên không?

– Muôn tâu bệ hạ! Thần thiếp chỉ được biết đến đó. Vì Mohamet Muykhan đã kể cho con cháu ông ta nghe, như một lời trăn trối cuối cùng trước khi chết. Và người ta cũng không biết được rằng: Ông ta kể lại để dạy khôn cho con cháu ông hay vì hối hận cho tội lỗi của mình!

- Này ái khanh! Tại sao trong câu chuyện này người giàu lòng nhân ái lại là dân ngoại đạo chứ không phải là người anh em cùng là con cháu Đức Ala của chúng ta?

– Muôn tâu bệ hạ! Xin bệ hạ thứ lỗi, vì sự thật đã xảy ra phũ phàng đúng như thiếp vừa kể. Bệ hạ quả là không công bằng khi có ý nghĩ cho rằng: Mọi sự tốt đẹp thuộc về con người chỉ có ở những người anh em cùng tôn giáo với chúng ta. Trong khi chính bệ hạ đã từng ra lệnh hành quyết nhiều kẻ phạm tội hoặc trái ý bệ hạ, mà những người đó có phải đều là dân ngoại đạo đâu?

– Vậy ái khanh quên rằng: Chính theo câu chuyện ái khanh vừa kể, sự tốt đẹp luôn hiện tồn bên cạnh cái xấu xa, thì sự công bằng luôn hiện hữu bên cạnh cái bất công đâu có gì là lạ, mà ái khanh trách ta?

– Muôn tâu bệ hạ! Chính vì thực tế ở cõi đời vốn đã khổ ải, lại thêm thương đau bởi con người tàn nhẫn với nhau. Chính vì có kẻ mạnh lấn át kẻ yếu, kẻ cậy cường quyền bạo lực ức hiếp lương dân vô tội, nên đã nảy sinh ước muốn có sự công bằng. Chính vì sự tàn nhẫn, lạnh lùng của con người trước nỗi thống khổ của đồng loại mà con người hướng tới lòng nhân ái. Chính vì sự trói buộc mà con người ước muốn tự do. Bắt đầu từ những ước vọng về tự do, công bằng và lòng nhân ái được thực hiện trên cõi đời này để đi đến sự thánh thiện hoàn mỹ cho nhân loại, mà con người đã tôn vinh Thượng đế theo hình ảnh của con người, với những quyền năng tuyệt đối như là một giải pháp để thực hiện ước vọng cao cả của nhân loại. Nhưng tiếc thay, Thượng đế lại vô hình, nên mọi người đều có lý khi tin hoặc không tin ở Thượng đế. Vì vậy, con người đã tôn vinh danh vị Hoàng đế với những quyền năng tối cao, như là giải pháp thực tế, để thực hiện những ước vọng của con người vào những giá trị tinh thần cao cả của họ. Do đó, chính bệ hạ và những quan chức đại diện cho quyền lực của nhà vua trên khắp lãnh thổ của vương quốc, sẽ phải chịu trách nhiệm về niềm tin của con người vào những giá trị tinh thần cao cả của nhân loại, chứ không phải những loại người như Mohamet Muykhan.

– Vậy những loại người như Mohamet Muykhan phải chịu trách nhiệm gì cho niềm tin của con người?

– Muôn tâu bệ hạ! Hành động của những loại người như Mohamet Muykhan thành công hay thất bại còn tuỳ thuộc vào khả năng của họ trước đối tượng. Cho nên họ phải chịu trách nhiệm trước lương tâm của chính họ và lưỡi gươm công lý được trao nơi bệ hạ … Hoàng hậu trả lời qua hơi thở, giấc ngủ đang từ từ đến với người phụ nữ tuyệt vời đã qua 1001 đêm thức trắng.

Nhà vua im lặng, ngài đặt tay lên trán nhìn vòm trần hình cung dát vàng và chạm trổ công phu. Chung quanh ngài là những phương tiện xa hoa mà con người dành cho ngài, vì ngài là niềm tin của họ. Bên long sàng, chiếc đồng hồ cát chảy liên tục như dòng suy nghĩ của nhà vua. Đã nhiều lần người thị nữ trung thành của hoàng hậu Sheherazatd lật lại nó, để chứng tỏ dòng chảy liên tục của thời gian.

Chợt một ý nghĩ loé lên trong đầu nhà vua. Ngài quay lại nhìn hoàng hậu: nàng đẹp như thiên thần đang mơ màng trong giấc ngủ. Những tia sáng đầu tiên của bình minh vội vàng lách qua rèm cửa sổ lâu đài để được hôn lên má nàng, báo hiệu đêm thứ 1002 của hoàng hậu đã trôi đi theo thời gian. Nhưng thế nhân vẫn còn lưu lại câu chuyện cuối cùng của nàng Sheherazatd.
1990