BabyWolf - Nguyễn Vũ Tuấn Anh

Blog cá nhân chia sẻ về thiết kế web, SEO, Online Marketing, giải pháp web, cuộc sống và nhật ký của tôi.

Những trái tim bí ẩn

BẮC VIỆT NAM – ĐẦU THẾ KỶ XX

Cử Trung chậm rãi mở tờ “Trung Bắc Tân Văn”. Bỗng hắn giật mình, cái “píp” đang ngậm trên miệng rơi xuống nền nhà, một hàng tít lớn chạy hết tám cột báo, ngay đầu trang hai đập vào mắt hắn: “Triệu phú An Nam”. Dưới hàng tít đó là hình một người đàn ông ăn mặc ra lối Tây, đeo kính trắng đang mỉm cười. Đó chính là tham Tuấn, bạn cũ của hắn. Hắn tái mặt thốt lên: “Thế là cả bọn chúng đều trúng độc đắc! Trời! Một triệu đồng bạc Đông Dương! Không lẽ bọn chúng đã đổi trái tim cho quỷ sứ thật?”. Hắn buông tờ báo đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng, dáng trầm ngâm….

… Lúc ấy, một đêm trăng muộn cuối hè. Trên trời muôn ngàn vì sao lấp lánh như ngọc rắc, đang lung linh toả ánh sáng mờ ảo xuống trần gian. Trong vườn của một ngôi nhà xây theo lối cổ ở cuối phố Quan Thánh – Hà Nội, cử Trung đang cùng ba người bạn chén tạc chén thù chờ xem hoa quỳnh nở.

Vầng trăng lưỡi liềm đã chênh chếch đỉnh đầu. Trong bụi quỳnh, những cánh hoa rung rung, rồi từ từ xoè ra như bàn tay ngà của tiên nữ đưa xuống trần gian. Gió từ hồ Trúc Bạch sau vườn thổi tràn vào mát lạnh làm những cành hoa đung đưa. Đoá quỳnh như một đám mây trắng bồng bềnh. Trên áng mây hoa đó, như có nàng tiên áo trắng đang vũ điệu Nghê thường. Mọi người tỏ ra ngây ngất trước sự nhiệm mầu của tạo hoá khi hoa quỳnh nở…

Đúng vào lúc đó, từ trong bóng tối của hòn giả sơn phía sau vườn, một người loạng choạng bước ra, cười ngặt nghẽo:

– Thì ra các bác tụ tập ở đây uống rượu, thế mà không gọi nhà em uống với cho vui.

Vừa nói, người đó vừa ngật ngưỡng bước tới, lấy chai rượu đang kẹp trong nách đặt mạnh xuống bàn như một lễ vật nhập tiệc. Phán Thông khó chịu nói mát:

– Quí hóa quá, ông mới sang chơi – Y quay lại đám bạn – Đây là ông cử Khôi, trước là lý cựu làng Vũ Đại, bây giờ là hàng xóm của tôi. Ông ấy có tật uống rượu suốt ngày như Lý Bạch tiên sinh.

Mọi người miễn cưỡng gật đầu chào, tỏ vẻ khó chịu. Lão lý Khôi cười hềnh hệch:

– Tôi không dám so tài với bậc tiền bối. Nhưng nói về cái khoản uống rượu thì chắc Lý tiên sinh cũng phải thua tôi!

Đầy tớ mang thêm bát đũa, lý Khôi chẳng khách sáo kéo ghế ngồi rồi rót rượu trong chai. Hắn mời mọi người, và ăn uống tự nhiên như vốn đã có mặt từ lâu. Đám thực khách mất hứng, chuyển đề tài từ hoa sang chuyện ăn nhậu, rồi chuyện làm ăn, kiếm chác ở cái thời buổi Tây, Tàu lộn xộn…

Khi tiệc rượu đã gần tàn thì cử Trung cũng đã say lắm. Y nhìn khuôn mặt của đám bạn y, lúc tròn lúc méo. Đặc biệt lão lý Khôi trông cứ như quỷ sứ: mặt hắn gồ ghề, dài ngoẵng với cái cằm chẻ, thêm vào đó là hai cái tai nhọn hoắt, lúc này nó có vẻ dài ra giống như hai cái sừng trên đầu con quỷ. Hắn còn nhìn thấy sau lưng lão lý Khôi thấp thoáng hai ba bóng người mờ ảo, như cô hồn bám theo ma quỷ. Cử Trung lắc lắc cái đầu nhìn kỹ: mấy bóng cô hồn biến mất như nhập vào người lão lý Khôi, chỉ thấy mình hắn vừa uống rượu vừa cười hềnh hệch. Nhưng chỉ được một lát, mấy bóng cô hồn lại hiện ra nhập nhoạng với lão Khôi. Cử Trung mang máng nghe như hắn nói:

– Nếu phải đổi trái tim cho quỷ sứ để lấy một triệu bạc Đông Dương, chắc các bác cũng sẵn lòng đổi chứ? Thật đơn giản mà lại lắm tiền, chẳng phải lo nghĩ kiếm chác cho mệt xác!

Nói xong hắn rót rượu và nâng chén. Cử Trung còn nghe bọn bạn hắn cùng ồ cả lên như hưởng ứng. Tham Tuấn nói:

– Đổi chứ! Với cái giá đó thì cả thân tôi cũng đổi cho quỷ được, có sá gì một quả tim.

Nói xong hắn cười hô hố. Lý Khôi gật gù tỏ vẻ bằng lòng, tự tay rót rượu đưa cho Tham Tuấn. Hắn ngửa cổ uống cạn. Phán Thông ra vẻ lý luận:

– Theo cách trí của văn minh Thái Tây bây giờ thì quả tim chỉ để lưu thông máu huyết. Đổi lấy một quả tim khác thì có gì mà không được. Miễn là máu vẫn chảy phải không các bác?

– Phải rồi! Phải rồi! – Tú Can gật gù tán thưởng, giọng lè nhè – Ở đời này thiếu gì thằng chết vì vài đồng bạc thì một triệu đổi lấy quả tim là quá rẻ! Ai chứ tôi thì tôi đổi ngay, chả cần phải tính toán!

Lý Khôi đắc ý cười rống lên. Hắn lại rót rượu trong chai của hắn vào chén – một thứ rượu trắng đùng đục, cay nồng mà lúc nãy cả bọn đều chê, đưa cho tú Can và phán Thông.

– Tốt! Tốt lắm! Thế thì chúng ta phải uống cạn chén rượu này để chứng tỏ sự nhất trí của chúng ta!

Mấy người bạn của cử Trung reo hò hưởng ứng. Họ lần lượt uống cạn chén rượu và lảo đảo.

Lý Khôi bước tới bên cử Trung nhăn nhở:

– Thế nào? Uống đi chứ! Sao? Không bằng lòng đổi hả? Một triệu bạc Đông Dương, người ta có thể hoá điên vì nó. Ha! Ha!

Khi hắn nói, hơi rượu phả ra nồng nặc từ cái miệng đen ngòm vì gẫy mấy cái răng cửa, có hai cái răng nanh nhọn hoắt chìa ra ngoài. Hắn lại đứng trong bóng tối của lùm cây. Ánh trăng rọi qua kẽ lá đung đưa, chiếu vào khuôn mặt gồ ghề của hắn làm cho nó loang lổ, lấp loáng trông thật ghê sợ. Đôi mắt tròn xoe, long lên sòng sọc nhìn như xoáy vào tim cử Trung. Hắn rùng mình, không hiểu đây là lão lý Khôi hay quỷ sứ hiện hình. Hắn thét lên:

– Đồ quỷ sứ! Cút đi. Tao không thể bằng lòng với một bọn hạ đẳng như chúng mày.

Cử Trung loạng choạng đứng dậy. Một mùi tanh dội lên từ trong bụng – hắn ôm cổ họng “hự” lên một tiếng rồi nôn thốc nôn tháo. Đầu hắn ong ong như búa bổ, mắt hắn hoa lên. Nhưng hắn cũng ráng với tay lấy cái liễn cơm trên bàn, quăng về phía lão lý Khôi.

Đám bạn hắn vội đứng bật dậy can hai người:

– Thôi đi bác Trung! Bạn bè uống rượu nói đùa một tí cho vui! Có gì đâu mà bác làm quá thế!

– Bác Trung say quá rồi! Vào ngủ đi.

Phán Thông quát đầy tớ dìu cử Trung vào phòng. Khi đi, hắn còn mang máng nghe họ xúm xít xin lỗi lão lý Khôi và tỏ ý chê trách hắn không xứng đáng với tư cách của bậc thượng lưu trí thức. Hắn bực tức lảm nhảm:

– Tao! Tao từ cả bọn chúng mày. Một bọn người hạ đẳng chơi với quỷ sứ! Chúng mày sẽ bị trừng phạt…

* *


*


Hắn cau mặt đi đi lại lại trong phòng. “Không hiểu lúc đó tại ta say rượu hay lão lý Khôi đúng là quỷ sứ hiện hình? Không lẽ ở thời buổi văn minh Phương Tây này mà lại còn có ma quỷ?”. Hắn lẩm bẩm nghi hoặc… Nhưng sự thật sờ sờ trước mắt hắn: “Cả ba thằng bạn hắn đều lần lượt có một triệu bạc Đông Dương của lô độc đắc trong ba kỳ xổ số liên tiếp, như có một phép lạ?…” – Cái giá mà bọn nó thoả thuận đổi trái tim cho quỷ để có – “Ta phải tìm cho ra lẽ!”.

* *


*


Một lát sau, chiếc xe tay gọng đồng bóng loáng do phu xe nhà kéo, chạy bon bon về phía cuối đường Quan Thánh. Trên xe, cử Trung ngồi đăm chiêu suy nghĩ…

Phán Thông, kẻ trúng độc đắc đầu tiên đã bán căn nhà của hắn dọn đi nơi khác. Nghe nói hắn hùn vốn với Tây mở đồn điền chè trên mạn ngược và sắm nhà Tây ở Hải Phòng, Đồ Sơn gì đó.

Cử Trung gõ cửa nhà lão lý Khôi, một căn nhà tồi tàn lọt thỏm giữa dãy phố sang trọng.

– Cứ vào! – Tiếng lão lý Khôi nói vọng ra.

Cử Trung đẩy cửa bước vào. Lão đang uống rượu, trên bàn lăn lóc mấy quả chuối xanh và đĩa muối ớt. Nhìn thấy cử Trung, lão đứng dậy ngơ ngác một chút rồi gằn giọng:

– À! Thì ra là ông! Quí hoá quá! Thật phúc đức cho một thằng hạ tiện như tôi, lại được một người sang trọng như ông hạ cố tới chơi!

Lão chỉ chiếc ghế đẩu rồi hạ giọng:

– Mời ông ngồi! Thế nào? Mấy ông bạn sang trọng của ông không ngó tới ông hả? Nghe đâu họ có cả triệu bạc Đông Dương đấy! Một bọn xỏ lá phải không ông?…

– Tôi đến đây chính vì việc đó – Cử Trung cố gắng làm mặt nghiêm nghị cho ra vẻ quan trọng trả lời lão Khôi.

– Sao? Định bắt họ chia hả? Ha! Ha! – Lão lý Khôi cười phá lên – Này! Tôi nói cho ông cử nghe. Cái loại người được gọi là cao quý như ông làm gì có được hành động cao quý ấy! Ông muốn lấy tiền của họ thì phải đổi lấy một cái gì chứ!

Cử Trung tím mặt vì bị xúc phạm, nhưng cố bình tĩnh nói:

– Vâng! Đó chính là điều tôi muốn hỏi ông – hắn đi thẳng vào đề – Có phải chính họ đã đổi trái tim cho ông để lấy một triệu Đông Dương phải không?

Lý Khôi há hốc cái miệng mất hết răng cửa, có hai chiếc nanh chìa ra ngoài tỏ vẻ ngạc nhiên:

– Ông nói cái gì? Một thằng như tôi mà lại có bạc triệu để đổi cho họ? Hố! Hố! Hố! – Lão lý Khôi cười rống lên. Bỗng hắn xụ mặt, đôi mắt long lên dữ tợn – Ông điên rồi! Đúng là ông điên rồi! Hãy cút đi, đồ điên loạn!

Nói xong, lão thuận tay cầm chén rượu ném thẳng vào người cử Trung. Trong nhà, tiếng chân người chạy ra rầm rập. Cử Trung vội đẩy cửa lách ra ngoài. Hắn còn nghe lão Khôi la hét:

– Cút đi! Thằng khốn nạn, mày muốn có tiền thì phải đi chơi với quỷ…

Thấy chủ ra, anh phu kéo chiếc xe tới. Hắn leo vội lên xe rồi hất hàm:

– Đến nhà ông tham…

Nói xong hắn lẩm bẩm:

– Thật là khó hiểu.

Hắn được tham Tuấn đón tiếp một cách lịch sự nhưng nhạt nhẽo trong một phòng khách sang trọng được bài trí ra lối Tây, vì tham Tuấn đã vào dân Tây. Chủ khách an toạ. Tham Tuấn rót chén nước lọc đẩy về phía cử Trung:

– Mời ông xơi nước.

Nói đoạn, hắn với tay lấy gói Cotab để trên bàn rút một điều thuốc gõ gõ lên móng tay, rồi châm lửa hút. Hắn không mời cử Trung. Sau khi thưởng thức một hơi thuốc thơm, hắn phà khói và chậm rãi nói với sắc mặt lạnh lùng:

– Đã hơn hai năm nay, kể từ bữa uống rượu ở nhà thầy phán Thông, nay mới gặp lại ông. Tôi cứ nghĩ rằng ông sẽ không bao giờ gặp lại chúng tôi nữa chứ! Nay ông ghé nhà chắc có điều gì muốn nói?

Cách đối xử của tham Tuấn làm cử Trung ngượng ngùng lúng túng. Hắn cố bình tĩnh nói lấp lửng:

– Vì đời có nhiều chuyện lạ, nên tôi đến hỏi ông!

– Đời chẳng có gì lạ. Kể cả việc tôi vừa trúng độc đắc.

Cử Trung vội vã chớp lấy câu nói tham Tuấn:

– Bác tham ạ! Đó chính là chuyện mà tôi muốn…

Tham Tuấn gạt ngang:

– Nếu tôi không trúng thì có người khác trúng, đâu có gì lạ.

– Cái lạ là ở chỗ bác với phán Thông và cả tú Can đều lần lượt trúng số ba kỳ xổ số liên tiếp sau bữa uống rượu ở nhà phán Thông – Cử Trung dừng lại thăm dò.

Tham Tuấn ngồi im, mặt lạnh như tiền. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu cử Trung: “Đúng là sắc diện của thằng mang trái tim của quỷ”. Hắn nói tiếp:

– Nếu tôi không nhầm thì lúc đó các bác đã bằng lòng đổi trái tim cho quỷ để có một triệu đồng?!.

Tham Tuấn tái mặt, hắn gạt ngang với một giọng đều đều:

– Này anh cử! Cái đó chỉ là chuyện rượu vào lời ra, không liên quan gì đến anh. Tôi còn nhớ hôm đó anh đã tệ đến mức ói mửa một cách khiếm nhã, không ra cái thể thống gì, lại còn nguyền rủa rồi từ chúng tôi. Anh coi chúng tôi như một lũ cô hồn đi theo ma quỷ. Tôi cứ tưởng sẽ không bao giờ còn gặp mặt anh nữa. Những điều anh hỏi tôi, đến mật thám Sở Liêm phóng cũng chưa có quyền hỏi tới. Theo tôi, chuyện lạ nhất trên đời này là thằng đã khinh rẻ bạn bè, tỏ ra cao thượng, nhưng lại muốn trở lại thân quen khi bạn nó giàu có!

Tham Tuấn nói một hơi, cử Trung sạm mặt vì bị xúc phạm. Hắn dằn mạnh cốc nước xuống bàn:

– Anh Tham! Tôi cũng không ngờ anh lại có lối nghĩ về bạn bè một cách thô bỉ như thế. Khi anh say, anh đổi trái tim cho quỷ, thì khi tôi say, say thật sự, tôi quá lời. Nhưng anh đừng vội nghĩ rằng tôi đến đây vì anh trúng độc đắc, có một triệu bạc Đông Dương, mà anh đã vội khinh rẻ bạn bè. Tôi không giàu bằng anh, nhưng cũng không phải dân hạ lưu. Rồi anh sẽ thấy: tự tôi sẽ tạo dựng nên cơ nghiệp chứ không phải như bọn anh, những kẻ chấp nhận đổi trái tim cho quỷ sứ để làm giàu!

Nói xong hắn đứng phắt dậy, xô ghế, mặt hầm hầm bước thẳng ra cửa. Tham Tuấn nhún vai, nói với theo kèm một cái cười nhạt:

– Đổi trái tim cho quỷ để lấy tiền cũng chẳng lấy gì làm xấu, đâu có trộm cướp lừa đảo ai. Đổi chác sòng phẳng mà. Nếu có dịp, tôi khuyên anh cũng nên đổi…

Cử Trung bước mạnh lên xe, bực tức buông thõng một câu:

– Về!

Anh phu xe ngơ ngác vài giây rồi cắm cúi kéo chiếc xe đi. Suốt dọc đường, hắn lầm lỳ không nói một lời nào. Vẻ mặt hắn lạnh lùng, đôi lông mày nhíu lại. Trong thâm tâm, hắn vẫn tin rằng các bạn hắn đã đổi trái tim cho quỷ để lấy tiền. “Một bọn đểu giả! Tiền! Chính tiền đã làm ra những thằng đểu”. Hắn đã bị mạt sát, sỉ nhục bởi những thằng đểu nhưng có tiền. “Hừ!” – hắn nghĩ – “Suy cho cùng thì thằng nào cũng cần có tiền. Chính ta cũng vì có tiền mà thằng culi xe kia gò lưng kéo ta đi và chịu để cho ta quát tháo, sỉ vả. Ha! Ha! Rút cuộc cả thế giới đều quay cuồng vì tiền!”. Hắn nhếch mép cười nham hiểm. “Ta phải giàu có, phải có tiền để có tất cả, cái bọn đểu giả đó phải quỳ phục khi ta trở thành phú gia địch quốc mà không cần đổi trái tim cho quỷ. Bọn này sẽ biết tay tao!…”.

* *

*

Gần mười năm trời trôi đi, ông cử Trung trở thành tay cự phú. Người ta đồn rằng: Ông ấy có cả chục đồn điền lớn trên mạn ngược và cả ở xứ Nam kỳ. Ông ấy còn làm chủ nhiều khách sạn, cao lâu sang trọng ở nhiều tỉnh, thành phố Bắc kỳ. Ấy là chưa kể ruộng vườn vô số kể và hàng dãy phố lớn nhỏ cho thuê với đủ mọi giá ở Hà Nội, Hải Phòng. Sự giàu có đó người ta cho rằng đến Tây cũng phải nể và ông Bạch Thái Bưởi có sống lại cũng đến lắc đầu. Nhưng có điều mà ai cũng thấy ở ông cử Trung là sự lạnh lùng sắt đá. Hình như cả đời ông chưa hề biết thương xót và cũng chưa hề làm gì có thể được gọi là từ thiện. Những người tỏ ra sành sỏi về tâm lý học cho rằng: “Sở dĩ ông cử có cái tính đó, vì sự nghiệp của ông bắt đầu là do mở sòng bạc và cho vay cắt cổ”. Ông đánh giá chính xác từ giá trị cái vương miện của đức Hoàng thượng, cho đến cả manh áo rách của thằng ăn mày và ông sẵn sàng cho cầm nếu thấy có lợi cho ông, chẳng cần biết đến quốc sỉ và lương tâm. Ông tỏ ra hài lòng, khi những con bạc thua cháy túi đem tài sản cầm cố cho ông với giá rẻ mạt, để cay cú nướng tiếp vào cuộc đỏ đen. Nhiều kẻ phải bán vợ, đợ con, tán gia bại sản vì ông. Ông làm giàu trên sự thất cơ lỡ vận và khốn cùng của con người, nên ông không thể xúc động và thương hại họ được. Sự sòng phẳng lạnh lùng đến độ tàn nhẫn đã mang lại cho ông cơ ngơi của nhà triệu phú…

Cử Trung đã thoả mãn với sự nghiệp của mình. Hắn nghĩ đến những thằng bạn khốn nạn đã khinh bỉ và sỉ nhục hắn. Với kinh nghiệm của kẻ đã từng trải trong việc kinh doanh, hắn đoán không sai khi cho rằng: đám bạn của hắn đã sạt nghiệp, hoặc may mắn lắm thì cũng chỉ hưởng nhàn chứ không thể hơn hắn được.

Hắn tin rằng, với tài sản hàng trăm triệu như hắn thì những thằng bạn ấy sẽ phải phun ra những điều bí ẩn của chúng nó để đổi lấy chút ơn huệ do hắn ban cho, như trước đây chúng đã đổi trái tim cho quỷ. Nhưng đám người ấy bây giờ ở đâu?

* *

*

Vào chập tối đêm giao thừa năm Tý. Đường phố Hà Nội vắng vẻ trong không gian lạnh lẽo và mờ mịt vì mưa bụi. Có một lão ăn mày lê từng bước chậm chạp trên hè phố. Thỉnh thoảng hắn lại ôm ngực, ho lên từng cơn làm cho thân hình gầy gò của hắn run bần bật một cách thảm não. Hắn hy vọng có một nhà nào đó còn mở cửa để xin ăn. Nhưng mọi nhà đều đóng cửa im ỉm chờ đón giao thừa và hắn cứ thế lê bước chân trong gió mưa lạnh lẽo.

Đến một ngôi nhà xây theo kiểu biệt thự ra lối Tây gần đầu phố Cửa Đông, ý chừng quá mệt mỏi và bị cơn đau hành hạ, hắn té nhủi xuống người va vào cánh cửa. Tiếng động bất ngờ làm đàn chó Tây trong nhà cùng rồ lên sủa ong ỏng. Nghe tiếng chó sủa dai dẳng, một anh đầy tớ chạy ra mở chiếc cửa ô nhỏ trên cánh cổng sắt nhìn ra ngoài. Thấy lão ăn mày, anh lớn tiếng quát:

– Cút ngay! Ai cho mày nằm trước cửa nhà ông!

Gặp người, lão ăn mày ngóc đầu dậy, thều thào năn nỉ:

– Xin ông làm ơn làm phúc cho kẻ bệnh tật khốn khổ này miếng cơm hớp cháo sống qua ngày! Tôi kiệt sức quá rồi! Tôi không thể lết đi được nữa.

Anh đầy tớ nhăn mặt:

– Mày biết đây là đâu không mà dám lại xin ăn? Nhà ông cử Trung đấy! Ông chủ chúa ghét những bọn khố rách áo ôm xin xỏ. Cút đi chỗ khác! Ở đây không có gì cho mày đâu!

Nghe đến tên cử Trung, mắt lão ăn mày sáng lên hy vọng:

– Thưa ông! Có phải ông cử Trung mà ông nói đấy là ông Bùi Thế Trung, con cụ án Phát, nhà trước ở phố Hàng Đồng không ạ! Tôi là tú Can vốn có quen ông cử Trung từ trước…

Anh đầy tớ nhăn mặt:

– Mày đừng có láo, dám gọi tên tục ông chủ tao! Không bước ngay, ông thả chó ra bây giờ!

Nói xong, anh đầy tớ đóng sập ô cửa và bước vào nhà.

– Cái gì ngoài đó thế mày? – Cử Trung hất hàm hỏi.

– Dạ bẩm ông! Có thằng ăn mày nằm ngoài cổng. Con đã đuổi, nhưng nó không chịu đi. Nó còn xưng tên là tú Can và nói có biết ông chủ ạ!

Cử Trung giật mình:

– Hả! Nó nói nó là tú Can hả?

– Dạ bẩm vâng!

– Nó còn nói gì nữa không?

– Dạ bẩm! Nó còn biết tên họ ông chủ và biết ông là con cụ Án, trước ở phố Hàng Đồng.

Cử Trung nghĩ bụng: “Có lẽ là tú Can thật…”. Hắn ra lệnh cho anh đầy tớ:

– Mày ra đưa nó vào nhà bếp, cho nó ăn uống tắm rửa, rồi lấy một bộ quần áo cũ của chúng mày đưa cho nó mặc. Sau đó bảo nó chờ đấy, tao sẽ xuống gặp!

Anh đầy tớ ngạc nhiên: Đây là lần đầu tiên anh thấy ông chủ giúp một kẻ ăn mày…

Nửa giờ sau, cử Trung bước xuống nhà bếp, tú Can cũng vừa ăn xong bát cháo. Sự tàn phá của thời gian trong một quãng đời khốn nạn, khiến cho đường nét và điệu bộ của lão ăn mày không còn cái gì là của tú Can gần mười năm về trước. Cử Trung hất hàm hỏi:

– Ông có phải là tú Can trước ở phố Hàng Bồ không?

Lão ăn mày giương đôi mắt mệt mỏi nhìn kỹ vào người vừa hỏi mình:

– Ông! Ông là ông Trung ở phố Hàng Đồng…?

Nói chưa hết câu, tú Can ôm ngực ho sù sụ.

Cử Trung gật đầu:

– Tôi cũng có ý định tìm kiếm mấy ông. Phán Thông, tham Tuấn bây giờ ở đâu?

– Thưa ông! Ông phán Thông tôi nghe nói ông ấy hùn mở đồn điền với Tây ở trên mạn ngược, làm ăn cũng phát tài lắm. Nhưng hồi các quan Tây đánh nhau với quân của cụ Đề Thám, ông ấy đã chết trong loạn lạc rồi.

– Còn tham Tuấn? Ông có nghe gì không?

– Thưa ông! Tham Tuấn lúc có tiền, hắn lấy thêm vợ lẽ và mua cho cả dãy nhà ở phố Nhà Hoả bây giờ, lâu lâu hắn lại về đấy ở. Không may bị hoả hoạn, cháy to lắm! Nó với con vợ lẽ cũng chết cháy cả. Sau khi nó chết, con vợ cả đi lấy Tây rồi!

Cử Trung cười nhạt:

– Còn ông? Cả triệu bạc Đông Dương đâu mất cả mà lại đến nông nỗi này?

– Thưa ông! Tôi sau khi trúng số độc đắc được vài năm thì vợ tôi chết vì ho lao.

Nói đến đây, tú Can lại ôm ngực ho lên sù sụ, máu ứa ra hai bên mép, hắn quệt máu vào tay áo rồi hổn hển nói tiếp:

– Còn con trai tôi thì chết trong đợt lính tập sang Tây. Thế là tôi chán đời, bao nhiêu tiền bạc nướng vào cô đầu, nhà thổ và vào sự đen đỏ trường đời hết cả…

Tú Can thở dài:

– Âu cũng là sự trừng phạt của số kiếp. Tôi mong ông thương tình ra tay cứu vớt. Suốt đời tôi xin đội ơn ông!

Cử Trung nheo mắt nhìn tú Can một cách khinh bỉ:

– Sao ông không tìm đến lão lý Khôi mà cầu cứu hắn.Chính hắn đã mang lại bạc triệu cho các ông kia mà…

Tú Can nhìn cử Trung ngơ ngác, có vẻ như không hiểu hắn nói gì. Tú Can ấp úng:

– Lý Khôi chết rồi! Hình như chết rồi! Không thấy hắn đâu cả…!

– Sao! Hắn ra sao rồi? – Cử Trung hỏi đồn.

Tú Can mặt tái mét, hổn hển nói lắp bắp:

– Tôi! Tôi cũng chỉ nghe nói lại. Vì sau khi cả bọn tôi trúng số thì cũng bàn nhau ghé lão lý Khôi chơi, định cho lão ít tiền. Khi đến nơi thì người nhà lão cho biết: cách đó ít lâu, lão ra mé hồ Trúc Bạch sau nhà câu cá làm đồ nhắm rượu, nhưng không thấy trở về. Bên chỗ lão ngồi câu, người ta tìm thấy đôi guốc mộc lão vẫn đi, mồi câu cá và cả cái cần câu nổi bên hồ, nhưng chẳng thấy lão đâu cả. Ai cũng nghĩ lão say rượu rồi chết đuối. Nhưng mò thì không thấy xác, cả tháng cũng không thấy xác nổi lên. Mà cái hồ Trúc Bạch cũng không lấy gì làm lớn lắm. Rút cuộc cũng không ai biết lão ra làm sao…

“Thật đúng là một con quỷ, nó đã biến mất!” – Cử Trung nghĩ bụng, hắn gằn giọng:

– Này tú Can, chắc ông còn nhớ bữa rượu cuối cùng của chúng ta ở nhà phán Thông chứ? Nếu ông chịu nói thật liên hệ giữa lão lý Khôi với mấy cái giải độc đắc của các ông thì tôi sẽ cho ông ít tiền để sống!

Tú Can trợn mắt nhìn cử Trung, có vẻ ngạc nhiên…

Cử Trung cau mặt, sẵng giọng nói thẳng:

– Mày đừng giả vờ, có phải đêm hôm đó chúng mày đã thoả thuận đổi trái tim cho lão lý Khôi quỷ sứ đó, để lấy một triệu bạc Đông Dương phải không? Nói đi! Không nói thì bước ngay ra khỏi nhà tao và tiếp tục sống nốt cuộc đời khốn nạn của mày…

Tú Can tái mặt vì xúc động và đau đớn, hắn ngồi đực ra.

Cử Trung nhếch mép cười mai mỉa:

– Nói đi chứ! Mày dám đổi trái tim cho quỷ để lấy tiền thì bây giờ mày cũng phải thấy cần đổi bí mật của quỷ để cứu lấy cái mạng mày chứ…

Tú Can vẫn im lặng, ngồi trơ như đá một lúc rồi miệng hắn lẩm bẩm câu gì nghe không rõ.

– Sao! Mày không chịu nói hả? Không nói thì cút! Bay đâu! Tống cổ thằng này ra khỏi nhà cho tao!

Tú Can giật mình hốt hoảng, hắn chồm tới gần như quỳ dưới chân cử Trung, nói một cách vội vã:

– Không! Không! Ông đừng đối xử tệ với tôi. Ông hãy nghe tôi nói đây… Vừa nói đến đấy, bỗng tú Can ôm ngực “hự” lên một tiếng, mắt trợn ngược, máu họng trào ra ngoài rồi lảo đảo gục xuống. Hắn lăn lộn rên rỉ một hồi rồi nằm im bất động.

Cử Trung cau mặt, lấy chân đá vào người lão, lão vẫn không nhúc nhích. Hắn bực tức văng tục:

– Mẹ kiếp! Thật đen đủi. Năm hết Tết đến đi rước của nợ vào nhà mà không được cái tích sự gì!

Hắn quay ra quát đầy tớ:

– Bay đâu! Kiếm manh chiếu cũ bó nó lại, rồi đưa vào nhà thương thí cho tao!

Nhìn đám đầy tớ xúm xít khiêng lão tú Can ra ngoài, cử Trung nhếch mép cười nửa miệng một cách ngạo nghễ. Hắn mở tủ lạnh lấy ra một chai rượu Tây rót đầy cốc, ngửa cổ uống cạn để thưởng cho chính hắn: hắn đã chứng tỏ được con người hắn mạnh hơn ma lực của quỷ!

* * *

1000 NĂM SAU

Một thông báo của ngành khảo cổ – qua các phương tiện thông tin đại chúng – đã làm chấn động dư luận:

“Các nhà khảo cổ đã phát hiện được một trái tim người nguyên vẹn đến tận từng chi tiết, nhưng lại bằng đá trong một ngôi mộ cổ đào được ở vùng châu thổ sông Hồng thuộc miền Bắc Việt Nam. Mộ bia đào được cho biết đó là mộ của một con người tên Bùi Thế Trung sống ở đầu thế kỷ XX. Qua di vật còn lại, mặc dù di hài đã thành đất, các chuyên gia cho rằng: đây là một người khi còn sống, được coi là giàu có trong xã hội đương thời. Nhưng chính sự hiện tồn của trái tim đá mới là điều chú ý của các chuyên gia và dư luận.”

Ý kiến của các chuyên gia về lịch sử mỹ thuật trong Viện Khảo cổ cho rằng: Đây là một tác phẩm điêu khắc tiêu biểu của trường phái “cực hiện thực” tồn tại vào thời bấy giờ và tất nhiên là một tác phẩm có giá trị, nên đã được chủ nhân của nó: ông Bùi Thế Trung cho chôn theo khi chết, như tập tục cổ.

Nhưng ý kiến của nhóm này nhanh chóng bị bác bỏ, khi người ta dùng tia quang tuyến chiếu xuyên qua trái tim đá. Họ thấy rằng: đó không phải là một trái tim bằng đá mà là một trái tim người bị hoá đá. Phát hiện này thật sự đã làm các nhà khoa học sửng sốt.

Theo các chuyên gia về khảo cổ học cho biết: Trong lịch sử ngành khảo cổ, họ chưa hề thấy một hoá thạch thuộc phần mềm của một bộ phận trong cơ thể sinh vật, khi mà chính bộ xương của sinh vật đó – có cấu tạo gần với đá nhất – lại bị tiêu huỷ.

Những sự kiện trên được đưa tới “Trung tâm nghiên cứu hiện tượng lạ toàn địa cầu”. Đây là một cơ quan rất có uy tín trong chức năng của nó. Những thành tích vĩ đại mà Trung tâm đã có trong cộng việc đóng góp vào kho tàng kiến thức của nhân loại, khiến cho mọi người kỳ vọng vào nó trong việc giải thích sự hiện hữu của một trái tim đã đầy bí ẩn.

Nhưng ngay cả ở Trung tâm này, các chuyên gia cũng không thống nhất ý kiến. Cuối cùng người ta phải nhờ đến can thiệp của “Siêu máy tính điện tử”. Đây là loại máy hiện đại nhất thời bấy giờ. Bộ nhớ của nó ghi lại toàn bộ kiến thức của nhân loại và có khả năng suy luận trên cơ sở những dữ kiện khổng lồ ấy.

Dư luận lại một lần nữa sửng sốt về kết quả phân tích của “Siêu máy tính điện tử”.

“Sự hiện hữu của trái tim người hoá đá chỉ có thể giải thích được nếu người ta thừa nhận rằng: Khi con người sống với lý trí thuần tuý không xuất phát từ một căn bản nhân tính, để cho sự lạnh lùng của lý trí với mục đích vị kỷ bóp chết những rung cảm hướng thiện của tâm hồn, thì trái tim sẽ hoá đá sau khi chết. Đó là một thực tế chứ không phải là một hình tượng nghệ thuật”.

Vài ngày sau đó, mọi người lại được thông báo lập luận về vấn đề này của một chuyên gia có uy tín, đứng đầu nhóm các nhà bác học chuyên nghiên cứu về “Những vấn đề của con người và máy tính điện tử”, giáo sư – tiến sĩ Nig Vidi. Ông ta cho rằng:

“Suy luận của máy tính điện tử, được dựa trên trữ lượng dữ kiện to lớn là toàn bộ kho tàng kiến thức của nhân loại. Nhưng kho tàng đó chỉ là những thành tựu đã đạt được, chứ không phải là kết luận cuối cùng của chân lý tuyệt đối, vốn vô lượng vô biên như vũ trụ. Do đó, nó chưa thể bảo đảm tính tuyệt đối của sự kết luận”. Hơn nữa, ông Nig Vidi cho rằng: “Sự hiện tồn của trái tim đá chỉ là một sự kiện duy nhất về loại này trong lịch sử nhân loại. Cần phải có một hiện tượng tương tự được lặp lại với một kết luận trùng hợp, mới có thể chứng minh cho kết luận của Siêu máy tính điện tử”.

Lập luận này khiến cho sự tìm hiểu về trái tim đá tìm được trong cổ mộ đi đến chỗ bế tắc. Do đó, những người có quan điểm nhân văn, những nhà đạo đức – xã hội học vẫn được sự ủng hộ của những người lạc quan với cuộc sống, có tâm hồn lãng mạn và yêu đời – khi họ cho rằng:

“Trái tim của con người, cơ quan nhạy cảm nhất với những cảm xúc hướng thượng và nhân bản, là biểu tượng của những giá trị tinh thần cao cả của nhân loại trong tình yêu cuộc sống, cho nên nó không bao giờ hoá đá”.

19-12-1991